Đăng bởi: ngothebinh | Tháng Chín 3, 2016

20160903. BÀN VỀ ĐƯA CHỮ HÁN VÀO TRƯỜNG HỌC

ĐIỂM BÁO MẠNG

TẠI SAO NÊN ĐƯA CHỮ HÁN QUAY TRỞ LẠI TRƯỜNG PHỔ THÔNG ?

PGS TS ĐOÀN LÊ GIANG/ VNN 30-8-2016

dạy chữ Hán trong trường phổ thông, môn Hán Nôm

PGS. TS Đoàn Lê Giang cho rằng nên đưa chữ Hán Nôm vào dạy trong nhà trường phổ thông. Ảnh: Lê Văn

VietNamNet xin giới thiệu lược thuật bài viết của PGS. TS Đoàn Lê Giang (Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM) giải thích lý do tại sao nên đưa chữ Hán quay trở lại nhà trường phổ thông Việt Nam. Báo cáo này đã được trình bày trong hội thảo “Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hồi nhập quốc tế” diễn ra từ năm 2010.

Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo, Tiếng Việt đang bị dùng sai một cách khủng khiếp. Chỉ có mấy từ dùng sai mà sửa mãi mấy chục năm vẫn không hết: “yếu điểm” được dùng như “điểm yếu“, “cứu cánh” được dùng như “cứu giúp“, thậm chí có nhà văn nọ trên báo Văn nghệ còn dùng từ “khiếm nhã” như là “trang nhã“…

Sự sụp đổ của Tiếng Việt?

Những sai lầm yếu kém trên sẽ không có nếu học sinh được học chữ Hán, có thói quen tra từ điển Hán – Việt và Tiếng Việt. Với tình hình giáo dục như hiện nay thì nói đến việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt chính lại là phải học chữ Hán.

Ở Nhật Bản từ mấy chục năm trước đã cảnh báo về nguy cơ suy thoái của Tiếng Nhật qua một loạt sách bán rất chạy. Trong các sách ấy đều quy nguyên nhân cho sự suy thoái của Tiếng Nhật là ở chỗ dùng từ gốc Hán sai, kiến thức về chữ Hán nghèo nàn, lạm dụng từ gốc Tiếng Anh…

Tiếng Nhật với một chương trình giáo dục chú ý giảng dạy gần 2.000 chữ Hán mà còn như vậy, huống chi Tiếng Việt. Số từ gốc Hán chiếm đến 70% số từ vựng Tiếng Việt, mà người Việt không học, không hiểu chữ Hán, thế thì làm sao mà chẳng dùng từ sai và vốn từ nghèo nàn. Nếu tình hình không được cải thiện thì viễn cảnh về sự sụp đổ của Tiếng Việt sẽ còn không xa.

Vong bản ngay trên đất nước mình

Có lần một sinh viên Nhật Bản khoe với tôi: Em đến thăm chùa Vĩnh Nghiêm thấy đề là chùa thuộc phái Lâm Tế, em thấy rất thân thuộc vì giống như ngôi chùa ở gần nhà bà ngoại em. Nhưng đối với một thanh niên Việt Nam thì khi đến chùa, nhìn lên bảng hiệu, hoành phi, câu đối hay bài vị, họ sẽ cảm thấy xa lạ như bất kỳ một ngôi chùa nào ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc…

Thanh niên Việt Nam không còn thấy có một mối dây liên hệ nào giữa mình với quá khứ của ông cha. Họ không có xúc cảm nào trước một tập thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, một quyển Kiều bằng chữ Nôm,…Có thể nói họ đang vong bản ngay chính trên đất nước mình.

Thế nên, so với các nước Đông Á: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… thanh niên Việt Nam hiện đại hóa yếu nhất, nhưng đồng thời cũng giữ bản sắc dân tộc kém nhất.

Các nhà nghiên cứu Đông Á – trừ Việt Nam – dù không chuyên về cổ điển nhưng vẫn hiểu được khá sâu chữ Hán và văn hóa truyền thống của họ, vẫn có thể đọc được thư tịch cổ của nước họ với nhiều mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, một nhà nghiên cứu sẽ cảm thấy rất khó khăn khi hiểu về những vấn đề văn, sử, triết, ngôn ngữ cổ của dân tộc mình.

Sinh viên, nghiên cứu sinh về khoa học xã hội và nhân văn của Việt Nam gần như không hiểu được sách vở của cha ông nếu không được dịch, chú, phiên âm ra chữ quốc ngữ Latin.

Có thể nói khi ra nước ngoài học tập, sinh viên Việt Nam không thua kém gì so với sinh viên các nước Đông Á khác, nhưng riêng về khoa học xã hội và nhân văn thì còn kém khá xa. Không ít sinh viên Việt Nam than thở không biết biểu diễn bộ môn văn hóa truyền thống gì cho bạn bè các nước xem, ngoài áo dài và nem rán ra thì hết!

Tại sao? Trước hết là vì kinh tế, nhưng quan trọng hơn là: Nền giáo dục của chúng ta rất kém trong việc giáo dục văn hóa truyền thống mà việc loại bỏ chữ Hán là biểu hiện đầu tiên và gây ấn tượng nhất.
Trong luận văn khét tiếng Luận về chính học cùng tà thuyết của Ngô Đức Kế, nhà chí sĩ đã phê phán một cách mạnh mẽ tình trạng học thuật đương thời: “Âu học vẫn chưa vin được ngọn ngành mà Hán học đã đứt cả cội rễ”.100 năm – một chủ trương bỏ dở

Trường Đông Kinh Nghĩa Thục của các chí sĩ Duy tân thành lập năm 1907, cho đến nay vẫn được nhiều chuyên gia đánh giá là trường học có tư tưởng giáo dục tiên tiến, sâu sắc nhất ở nước ta từ trước đến nay. Tuy cổ động việc học chữ quốc ngữ Latin thay cho chữ Nôm, nhưng trường vẫn tổ chức học một cách nghiêm túc 2 ngoại ngữ bắt buộc: Pháp văn và Hán văn.

Nếu từ đó đến nay tư tưởng giáo dục ấy được thực hiện thì chúng ta đã có một nền giáo dục Việt Nam khác hẳn: Hiện đại hơn, nhưng cũng đậm đà bản sắc dân tộc hơn.

Trước năm 1945 ở nước ta, sau khi bỏ các kỳ thi chữ Hán, chữ Hán vẫn được giảng dạy trong nhà trường, mỗi tuần 1 – 2 tiết, nhưng cũng đủ cho người học hiểu được chữ Hán, không dùng sai Tiếng Việt và để cái tinh thần truyền thống qua thứ chữ ấy góp phần tạo nên cốt cách con người.

Nhờ vậy mà các trí thức được đào tạo thời Pháp nhìn chung đều có một kiến thức Hán học khá vững chắc bên cạnh kiến thức Tây học căn bản. Chính họ đã làm rường cột trí thức cho quốc gia và mãi mãi là niềm tự hào của đất nước: Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Đặng Thai Mai, Ca Văn Thỉnh, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Văn Huyên, Trần Văn Giàu…

Dạy chữ Hán trong nhà trường như thế nào?

Nhìn ra các nước Đông Á, không có nước nào dám đoạn tuyệt với chữ Hán.

Người Trung Quốc đã từng mơ Latin hóa chữ viết của mình, nhưng giấc mơ ấy bất khả. Họ đành bằng lòng quay về với việc dùng chữ Hán giản thể, và dạy cho học sinh phổ thông biết tối thiểu khoảng 3.000 chữ Hán để có thể đọc được tiếng phổ thông.

Người Nhật Bản cũng từng thử nghiệm dùng chữ Romaji (Chữ Latin) nhưng những văn bản ấy hồi đầu thế kỷ XX trở thành những bản mật mã. Họ đành sử dụng hệ thống chữ Kana (chữ phiên âm) mà dân tộc họ đã sáng tạo ra từ hơn 10 thế kỷ trước với hai dạng Hiragana và Katakana, bên cạnh đó vẫn bắt buộc học sinh tốt nghiệp trung học phải biết thuần thục 1.945 chữ Hán.

Người Hàn Quốc sử dụng chữ Hangul mà dân tộc họ đã sáng tạo ra từ TK.XV, trong văn bản thông thường hiện nay hầu như không còn chữ Hán nữa, nhưng những văn bản cổ hơn hay tài liệu khoa học thì dùng khá nhiều. Vì vậy Hàn Quốc vẫn dạy chữ Hán cho học sinh: Cấp 2 dạy 900 chữ, cấp 3 dạy 900 chữ, tổng cộng là 1.800 chữ. Lên đại học, sinh viên muốn đi sâu vào khoa học xã hội thì phải học chữ Hán nhiều hơn nữa.

Riêng có Việt Nam là hoàn toàn không dạy chữ Hán trong chương trình phổ thông. Điều ấy có liên quan gì với tình trạng kinh tế Việt Nam phát triển kém nhất, tiếng Việt dùng sai, nghèo nàn và bản sắc văn hóa dân tộc mờ nhạt nhất so với các nước trong khu vực?

Chủ trương đưa chữ Hán vào dạy trong trường phổ thông chắc chắn sẽ gây phản ứng dữ dội từ nhiều phía. Chúng tôi đã hình dung ra những câu hỏi cơ bản và cách trả lời sau:Làm thế nào để dạy chữ Hán trong nhà trường?

Hỏi: Sao không nghĩ học cái gì khác hiện đại, kiếm ra tiền, lại bày ra trò học Hán Nôm – một thứ chữ “cổ lỗ, lạc hậu” đã chết từ lâu rồi?

Trả lời: Việc giáo dục không phải chỉ học cái hiện đại, dễ kiếm tiền, việc giáo dục con người có sứ mệnh lớn hơn thế nhiều. Lợi ích của việc học chữ Hán như đã nói ở trên là để cứu lấy Tiếng Việt, để bảo vệ văn hóa dân tộc, để góp phần xây dựng người Việt Nam trở thành những con người có học vấn, có căn bản, biết tiếp thu cái mới, nhưng cũng biết kế thừa tinh hoa truyền thống…

Việc này không có gì mới mà chỉ là kế thừa tư tưởng giáo dục của ông cha, cũng tương tự như người Nhật, người Hàn dạy chữ Hán, người phương Tây dạy chữ Latin cho con em họ.

Hỏi: Học sinh hiện nay học đã quá tải rồi, học thêm chữ Hán nữa thì còn thì giờ đâu nữa?

Trả lời: Học trò quá tải vì chương trình của chúng ta quá rườm rà và vì cách học nhồi nhét, cách thi theo kiểu “trả bài” của chúng ta. Nên lược bớt chương trình đi, chỉ học những môn căn bản thôi. Chữ Hán là một trong những môn căn bản. Chính việc học chữ Hán sẽ cho chúng ta thấy học ngữ văn mà học thuộc văn mẫu mất rất nhiều thì giờ như hiện nay là không cần thiết. Hơn nữa có lẽ trước mắt chúng ta chỉ cần dạy cho học sinh khoảng 1.000 chữ Hán để biết chữ nghĩa căn bản, biết cách tra từ điển, biết cách tự học. Sau này khi có điều kiện tốt hơn, có thể dạy khoảng 2.000 chữ Hán như người Nhật, người Hàn Quốc đang làm.

Hỏi: Hay để giản tiện, chỉ học âm Hán Việt như trong các sách ngữ văn hiện nay có được không?

Trả lời: Không được. Vì chữ Hán là một thể thống nhất Hình – Âm – Nghĩa, chúng ta lược bỏ Hình đi thì từ gốc Hán sẽ không để lại một dấu ấn nào khả dĩ trong đầu óc học sinh. Hơn nữa mỗi một chữ Hán còn mang theo nó toàn bộ văn hóa truyền thống.

Hỏi: Giả sử Quốc hội cho phép thực hiện chương trình dạy chữ Hán đại trà ở trường phổ thông thì lấy đâu ra giáo viên?

Trả lời: Hiện nay vẫn có nhiều giảng viên ở những đại học lớn biết chữ Hán nhất là ở các khoa ngữ văn, lịch sử của các trường đại học. Chúng ta bắt đầu từ việc dạy đại trà cho sinh viên ngữ văn ở các đại học, rồi cho dạy thí điểm ở một số trường phổ thông. Sau đó dạy cho học sinh trung học cơ sở. Dần dần mở rộng ra học sinh chuyên ban khoa học xã hội ở trung học phổ thông. Cuối cùng mới tính toán đến việc dạy cho tất cả học sinh các ban khác.

Nếu chúng ta kiên quyết, kiên trì đưa Hán văn vào chương trình phổ thông thì sẽ đến ngày chúng ta thấy kết quả. Tiếng Việt của chúng ta sẽ giàu có hơn, trong sáng hơn, ít bị sai hơn.

Chúng ta sẽ có được thế hệ người Việt Nam mới: hiện đại, giàu có, mạnh mẽ, nhưng cũng uyên thâm cổ học, biết cắm rễ tri thức của mình vào nguồn mạch phương Đông và dân tộc, biết sống thung dung theo đạo học phương Đông và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc… Một thế hệ người Việt Nam mới như mong ước của các sĩ phu Duy tân đầu Thế kỷ XX và của cả dân tộc ta sẽ thành sự thật.

PGS.TS Đoàn Lê Giang

‘CẦN DẠY CHỮ HÁN ĐỂ GIỮ SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT’
LÊ VĂN / VNN 29-8-2016

PGS. TS Đoàn Lê Giang (ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM) cho rằng, muốn dùng tiếng Việt trong sáng thì học sinh phải học chữ Hán. Do vậy, cần phải đưa chữ Hán Nôm vào dạy học sớm cho học sinh.

Cần thiết đưa Hán Nôm trở lại trường học

Phát biểu tại Hội thảo Vai trò của Hán Nôm trong văn hóa đương đại diễn ra hôm 27/8, ông Giang cho rằng, trong số các quốc gia thuộc khu vực đồng văn (các quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc – PV) chỉ có Việt Nam là từ bỏ chữ Hán hoàn toàn nên thế hệ sau ít hiểu biết về quá khứ dân tộc.
Ông Giang dẫn ví dụ, ở Nhật, người tốt nghiệp phổ thông phải biết ít nhất 1.945 chữ Hán, đến hết ĐH thì phải biết khoảng 3.000 chữ. Trung Quốc cũng yêu cầu số lượng tương tự. Hàn Quốc thì hết phổ thông, học sinh phải biết khoảng 1.000 chữ. Chỉ có Việt Nam là không đặt ra yêu cầu này.Từ bỏ chữ Hán cũng là lý do khiến thanh niên Việt Nam đơn giản nhất, học hành hời hợt nhất, các nhà khoa học xã hội của Việt Nam cũng kém nhất so với học giả các nước và nước ta nghèo nhất, lạc hậu nhất so với Nhật, Hàn hay Trung Quốc.

Ông Giang cũng cho biết, nghiên cứu của một trung tâm nơi ông được mời dạy chữ Hán Nôm cho học sinh tiểu học cho thấy, những học sinh được học chữ Hán Nôm hình thành và phát triển nhân cách tốt hơn những học sinh khác không được học.

Trước đây chúng ta cứ nói rằng không dùng chữ Hán để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nhưng hiện nay phải nói ngược lại, phải học chữ Hán để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” – ông Giang nhấn mạnh.

Đồng tình với quan điểm này, PGS. TS Trịnh Khắc Mạnh (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) khẳng định, việc dạy Hán Nôm trong nhà trường phổ thông dứt khoát là phải đặt ra. Theo ông Mạnh, việc không có tri thức về Hán Nôm khiến hiện nay nhiều từ ngữ tiếng Việt bị nói sai.

Bên cạnh đó, hầu hết các môn học hiện nay đều có tính liên thông, kế thừa từ bậc phổ thông lên đại học, riêng môn Hán Nôm là không có. Việc dạy các văn học cổ hiện nay chỉ dạy thông qua phiên âm chứ không đưa nguyên văn Hán Nôm vào đã dẫn đến nhiều sai sót trong cách dạy cũng như cách hiểu văn học cổ.

TS Nguyễn Tô Lan (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) cũng khẳng định cần phải dạy chữ Hán Nôm sớm cho trẻ.

Kinh nghiệm cho thấy, ngay từ khi còn rất nhỏ, các các em đã đối mặt với việc phải nhận thức chữ nào là chữ Hán, chữ nào là âm Hán – Việt. Vì vậy, nếu đã không hiểu từ cái gốc rồi thì sau này lớn lên học rất là khó” – bà Lan nhận định.

PGS. TS Hà Văn Minh (Phó chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội) cũng khẳng định, “cần đưa, nên đưa và thế tất sẽ đưa” Hán Nôm vào dạy trong trong trường phổ thông.

Ông Minh cho hay, “kỳ thi quốc gia của Hàn Quốc từ 40 năm nay đều có môn Hán Văn Hàn Quốc, không có cớ gì chúng ta lại không. Hàn Quốc còn có một bộ giáo trình dạy Hán Nôm cực kỳ bài bản từ phổ thông“.

Bên cạnh đó, ông Minh cũng cho rằng, việc dạy Hán Nôm cũng sẽ tham gia vào việc hình thành ít nhất là 3 nhóm năng lực trên tổng số 8 nhóm năng lực theo định hướng giáo dục mới hiện nay – giáo dục hướng tới năng lực người học thay vì truyền tải tri thức.

“Bảo quý thì quý mà bảo không quý thì cũng chả quý gì”

Làm thế nào để đưa tri thức Hán Nôm vào trong nhà trường là vấn đề được nhiều chuyên gia quan tâm bàn thảo.

PGS. TS Hà Minh cho rằng, sắp tới, ông sẽ có ý kiến trực tiếp với các trường sư phạm, với những người tham gia biên soạn SGK trong đợt biên soạn sách sắp tới về việc đưa tri thức Hán Nôm vào giảng dạy.

dạy chữ Hán trong trường phổ thông, môn Hán Nôm

PGS. TS Hà Minh đề xuất đưa môn Hán Nôm trở thành môn học tự chọn trong trường phổ thông. Ảnh: Lê Văn

Ông Minh cũng đưa ra 2 phương án mà ông cho là “thiết kế khả thi” để đưa Hán Nôm vào giảng dạy trong nhà trường: Đầu tiên là đưa môn dạy Hán Nôm vào chương trình như một môn tự chọn. Bên cạnh đó, cần phải tăng tỉ trọng bộ phận văn học cổ bằng chữ Hán và chữ Nôm trong SGK mới sắp tới.”Nếu cần thiết thì tôi đề nghị liên hệ tất cả các cơ sở đào tạo, nghiên cứu về Hán Nôm để có một bản kiến nghị với tư cách một hội nghề nghiệp để có tiếng nói chính thức với các cơ quan chức năng” – ông Minh đề xuất.

Ngoài ra, ông Minh cũng đề xuất biên soạn một một cuốn sách giáo khoa tham khảo sử dụng trong nhà trường về Hán Nôm được Bộ GD-ĐT giới thiệu sử dụng. “Chúng ta có thể có 2 cuốn một cuốn cho THCS và một cuốn cho THPT bám sát chương trình Tiếng Việt và Ngữ văn của 2 cấp học này”.

Các nhà biên soạn có thể tham khảo những từ có tần số xuất hiện nhiều để làm sao sau khi học hết THCS thì học sinh biết được khoảng 1.500 từ. Hết THPT thì biết thêm khoảng 1.000 từ nữa” – ông Minh nói.

Bên cạnh đó, ông Minh cũng cho rằng, SGK Ngữ văn nên có bảng tra cứu từ và yếu tố Hán Việt nhưng phải có nguyên văn chữ Hán Nôm và giải thích chữ Hán Nôm đó để học sinh hiểu nghĩa từ nguyên.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia chuyên gia cũng cho rằng, hiện tại, việc đưa Hán Nôm vào dạy trong trường phổ thông là rất khó.

PGS. TS Đoàn Lê Giang cho rằng, hiện tại nếu nêu vấn đề đưa chữ Hán trở lại dạy trong trường phổ thông, chắc chắn nhiều người sẽ không đồng tình nhất là trong tâm lý xã hội hiện nay.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Sỹ Toản thì cho rằng bối cảnh hiện nay là rất khó khăn để đưa môn Hán Nôm quay trở lại trường phổ thông. Ông Toản dẫn ví dụ về môn Lịch sử trước đây đã suýt không có tên trong “bản đồ các môn học” chứ đừng nói tới môn Hán Nôm.

Ngay cả việc đưa môn Hán Nôm vào như một môn tự chọn cũng cần tính toán cách nào đó vì nếu học sinh không chọn học thì sẽ khó khăn trong việc giải quyết công việc cho các giáo viên đã được nhận vào biên chế” – ông Toản nói.

Trong khi đó, PGS. TS Trịnh Khắc Mạnh thì nói rằng, người ta nói Hán Nôm giống như chiếc bình hoa trong nhà, bảo nó quý thì nó quý còn cho nó không quý thì nó cũng chả quý gì. “Chúng ta là những người trong cuộc, chúng ta thấy quan trọng còn những người ở ngoài thì họ lại cho là không cần thiết” – ông Mạnh chua chát.

Lê Văn

ĐƯA CHỮ HÁN VÀO TRƯỜNG PHỔ THÔNG: AI NGHĨ CHO HỌC SINH?

HÀO HIỆP/ VNN 2-9-2016

Một trong những vấn đề làm nóng diễn đàn của Hội thảo “Vai trò của Hán Nôm trong văn hóa đương đại” là cuộc tranh luận có nên hay không đưa tiếng Tiếng Hán vào dạy trong trường phố thông ở nước ta.

Ý kiến của phần đông những nhà nghiên cứu tham gia hội thảo đều thiên về hướng đề xuất để chữ Hán xuất hiện trở lại trong chương trình học sau quãng thời gian dài vắng bóng. Vậy liệu những luận điểm đưa ra đã thực sự thuyết phục chưa?
Thực ra đây không phải là một vấn đề mới vì cách đây hơn 20 năm, đã có những đề xuất đầu tiên về việc này. Tiêu biểu là bài viết của nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo trên tạp chí Kiến thức ngày nay năm 1994. Kế sau đó, hàng loạt bài viết khác của các tác giả như Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Văn Quán v.v… cũng đã tán thành với quan điểm mà Cao Xuân Hạo nêu ra: cần phải đưa chữ Hán vào dạy và học trong trường phố thông.Thiếu chữ Hán làm nước ta nghèo nàn, lạc hậu?

Đến hôm nay, sau hơn 20 năm án binh bất động, vấn đề này một lần nữa được khơi lại. Để chứng minh cho tính cấp thiết của việc học chữ Hán đối với học sinh phổ thông, nhiều nhà khoa học trong hội thảo đã đưa ra những lí lẽ của riêng mình.

Một trong những lí lẽ đầu tiên là việc từ bỏ hoàn toàn chữ Hán đưa tới một hệ luỵ là thế hệ sau ít hiểu biết về quá khứ dân tộc. Quả đúng là việc không nắm được chữ Hán khiến cho thế hệ ngày nay có thể có ít cơ hội hơn để hiểu biết về lịch sử dân tộc.

Nhưng xét cho cùng, chữ Hán cũng chỉ là một công cụ để cho ta tìm hiểu về quá khứ dân tộc này. Không biết chữ Hán dứt khoát không thể đồng nghĩa với việc khiến cho kiến thức về văn hoá lịch sử dân tộc bị kém đi. Trong xã hội học tập hiện đại, ta có rất nhiều những phương tiện khác nhau để tìm hiểu về quá khứ dân tộc, chứ đâu nhất nhất cần phải biết chữ Hán. Vấn đề là ở chỗ chúng ta tổ chức học tập các môn khoa học xã hội như thế nào cho hiệu quả.

Sẽ là một ảo tưởng lớn khi cho rằng học sinh học chữ Hán trong trường phổ thông để đọc được và hiểu trực tiếp các văn bản mà cha ông đã viết ra hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm trước. Chẳng nói đâu xa, xin cứ hỏi ngay nhiều sinh viên học Khoa học xã hội và Nhân văn đã ra trường, những người đã từng phải kinh qua hàng trăm tiết của môn chữ Hán và chữ Nôm, xem họ còn giữ được bao nhiêu chữ trong đầu, xem họ có đọc nổi câu đối trong các đình đền miếu mạo hay không.

Lại có luận điểm cho rằng không biết chữ Hán khiến cho giới trẻ bị người nước ngoài “chê” là “vong bản”, “mù chữ” ngay trên quê hương của mình vì chẳng ai đọc nổi và hiểu nổi những gì mà ông cha ta đã viết.

Về luận điểm này, chỉ xin mượn lại ý kiến của nhà ngôn ngữ học Lê Xuân Thại trong Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc năm 2009 khi ông phản bác lại “những người nước ngoài nào đó” rằng “Thứ chữ này (chữ Hán) không phải là chữ của Việt Nam mà là chữ Hán trước đây cha ông chúng tôi dùng, bây giờ chữ của Việt Nam là chữ quốc ngữ. Cho nên thứ chữ này bây giờ ít người đọc được là chuyện bình thường”.

Một lí do hấp dẫn khác cũng được nêu ra: “Từ bỏ chữ Hán cũng là lý do khiến thanh niên Việt Nam đơn giản nhất, học hành hời hợt nhất, các nhà khoa học xã hội của Việt Nam cũng kém nhất so với học giả các nước và nước ta nghèo nhất, lạc hậu nhất so với Nhật, Hàn hay Trung Quốc”.

Ở đây, rõ ràng không có bằng cứ gì để khẳng định như vậy.  Đối với các nhà khoa học xã hội thì việc không biết chữ Hán cũng quyết không phải là nguyên nhân làm cho chúng ta trở nên “kém nhất”. Nếu cái sự “kém nhất” đó là đúng thì nó hẳn phải bắt nguồn từ nhiều nguyên do khác nhau, trong đó việc đào tạo về kĩ năng nghiên cứu, về ngoại ngữ, về kiến thức chuyên môn sâu, về bản lĩnh nghiên cứu… phải là những căn nguyên quan trọng nhất.
Thực ra, Cao Xuân Hạo đã nhắc đến luận điểm này khi ông nhấn mạnh lại ý kiến của nhà Hán học người Pháp Léon Vandermeersch cho rằng những con rồng châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore sở dĩ lớn mạnh được là do dùng chữ Hán. Nhưng đây thực tế cũng chỉ là một nhận định chủ quan, phiến diện của một vài học giả chứ chưa ai có thể chứng minh được một cách nghiêm túc và khoa học về mối liên hệ giữa sự phát triển hay lạc hậu của một đất nước với việc dùng hay bỏ chữ Hán cả.Về cái sự lạc hậu của Việt Nam so với các xã hội Nhật, Hàn hay Trung thì tôi cũng chưa tài nào hình dung được rằng chữ Hán lại sắm vai trò là một tác nhân quan trọng.

Còn việc các nước như Nhật Bản vẫn đưa chữ Hán vào học là chuyện đương nhiên không phải bàn cãi vì người Nhật vẫn sử dụng Hán tự (Kanji) với tư cách là một trong ba loại văn tự để ghi chép tiếng Nhật hiện đại.

Dạy chữ Hán có giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt?

Điều không thể phủ nhận trong vốn từ vựng tiếng Việt đương đại, có rất nhiều từ ngữ gốc Hán. Trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta sử dụng rất nhiều các từ Hán – Việt. Và cũng có một thực tế là một số từ ngữ đang bị sử dụng “sai”.

Sở dĩ tôi đặt từ “sai” trong ngoặc kép là vì cái “sai” ở đây là đứng trên góc độ của một người nghiên cứu ngôn ngữ hay Hán Nôm.

Tôi cho rằng chẳng có câu chuyện gì khủng khiếp trong việc sử dụng tiếng Việt hiện nay cả. Nếu “cứu cánh” được dùng như “cứu giúp”, nếu “bao biện” không còn nghĩa là “làm thay” nữa thì đó cũng là sự phát triển về ngữ nghĩa rất bình thường của tiếng Việt.

Nên nhớ đây là tiếng Việt trong bối cảnh cộng đồng ngôn ngữ Việt, chứ không phải tiếng Hán hay chữ Hán. Khi người ta cất lên lời hát rằng “nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi” thì mấy ai săm soi rằng đã có “tâm” rồi thì cần gì phải “lòng” nữa. Mà xin nói ngay rằng, tác giả của lời hát nổi tiếng trên trong bài “Hò kéo pháo” là nhạc sĩ Hoàng Vân, một người khá am tường về Hán tự. Liệu có ai nói ông “sai” trong trường hợp này không?

Thực chất, đối với những người bình thường sử dụng ngôn ngữ, thứ cốt yếu nhất không phải là cần phải hiểu cặn kẽ từ này, yếu tố này nọ mang nghĩa gốc gì cả. Đối với họ, ngôn ngữ là một công cụ giúp cho họ giao tiếp, tương tác với nhau. Trong giao tiếp thường nhật, điều quan trọng nhất là sự “hiểu nhau” giữa những người tham gia. Những thứ gì “sai” sớm muộn sẽ bị áp lực số đông đào thải và biến mất khỏi đời sống ngôn ngữ.

Do đó, vấn đề là không phải cứ biết chữ Hán là mới biết cách dùng đúng tiếng Việt. Ngược lại, biết chữ Hán thì nguy cơ dùng “sai” tiếng Việt nhiều hơn.Với tôi, việc một cộng đồng sử dụng ngôn ngữ ra sao còn quan trọng hơn rất nhiều so với việc các nhà nghiên cứu nhìn nhận và áp đặt nó như thế nào. Miễn là cộng đồng ngôn ngữ đó chấp nhận thì những từ ngữ kia sẽ dần trở thành chuẩn mực, bất kể gốc gác nghĩa của nó có thế nào đi chăng nữa.

Học sinh cần học gì?

Nói thế không có nghĩa là tôi phủ định vai trò của chữ Hán và tiếng Hán. Với số lượng chiếm tới quá nửa vốn từ vựng tiếng Việt, các từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hán có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với tiếng Việt, kể cả trong lịch sử lẫn đương đại. Thế nhưng, cần phải tách biệt rõ vị trí của kiểu loại từ này với việc có dạy chữ Hán cho học sinh hay không.

Ở trường phổ thông hiện nay, trong bộ môn Ngữ văn, không phải người ta không quan tâm đến các yếu tố gốc Hán này. Học sinh vẫn được học về ngữ nghĩa từ Hán Việt, về các yếu tố Hán Việt và việc mở rộng vốn từ Hán Việt. Học sinh được học “bất” có nghĩa là “không” trong cụm từ “bất lịch sự” hay “bất tài”. Theo tôi, như thế đã là đủ với bậc học phổ thông, chứ không nhất thiết phải biết từ “bất” có hình thù ra làm sao.

Trong xu thế giảm tải chương trình học phổ thông hiện nay thì việc bắt học sinh phải cõng thêm một môn chữ Hán nữa là không cần thiết. Nếu muốn học sinh giao tiếp và viết lách tốt hơn, nếu muốn học sinh hiểu biết nhiều hơn về lịch sử, về quá khứ thì việc thiết kế các bộ môn khoa học xã hội trong trường phổ thông cần phải thay đổi tận gốc theo hướng tinh giản, hiện đại, và thiết thực.

Cụ thể, trong môn Ngữ văn, muốn học sinh nói và viết chuẩn hơn thì cần tăng cường kĩ năng thuyết trình trước đám đông, loại bỏ các bài văn mẫu, khuyến khích học sinh viết luận một cách sáng tạo, tạo cho học sinh thói quen đọc sách hàng ngày…

Hào Hiệp (Australia)

HỌC CHỮ HÁN : TẠI SAO KHÔNG?

CHU MỘNG LONG/ VNN 3-9-2016

Không chỉ chữ Hán, mà theo tôi, những ngôn ngữ của những nền văn hóa lớn đều rất cần phải học nếu có điều kiện: như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Hindi…

Nhưng vì sao PGS. Đoàn Lê Giang đặt vấn đề phải đưa chữ Hán vào trong chương trình phổ thông? Và vì sao ý kiến này bị phản đối đông hơn là được ủng hộ?

Do bài viết của PGS. Đoàn Lê Giang không nói rõ, chữ Hán như là tiếng Việt được sử dụng cả mấy ngàn năm, trước khi chúng ta sử dụng chữ Latin thay thế, chứ không phải là một ngoại ngữ (tiếng Trung) như có người hiểu nhầm.

Chữ Hán hiện nay không chỉ tồn tại như một công cụ để giao tiếp hàng ngày (giúp người ta dùng đúng một số lượng khổng lồ từ và ngữ Hán – Việt) mà còn là công cụ để hiểu biết toàn bộ di sản văn hóa của cha ông. Nói cách khác, nó cũng là công cụ giao tiếp, nhưng là giao tiếp lớn hơn nhu cầu thực dụng: giao tiếp giữa xưa và nay, giữa con cháu với cha ông.

Một thực tế là số lượng người hiểu biết chữ Hán ngày càng ít đi và các di sản quá khứ ngày càng mai một nếu chỉ còn bảo tồn cái vỏ vật chất. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu, chuyển những di sản vật chất thành tinh thần, bởi vì chỉ nhờ nó mới lưu giữ đầy đủ những gì mà các di sản vật chất không thể lưu giữ trường tồn được.

Tôi hiểu những người phản đối PGS. Đoàn Lê Giang là những người mang định kiến ghét Tàu.

Họ cực đoan đến mức, những gì có liên quan đến Trung Quốc đều nên tẩy chay.

Và vì định kiến, nên tai hại thay là rất nhiều người trên mạng xã hội đã vội vàng chụp mũ PGS. Đoàn Lê Giang là “tay sai của Tàu”, âm mưu “Hán hóa người Việt lần nữa”?! Họ không cần biết PGS. Đoàn Lê Giang là ai, sẵn sàng ném đá cho hả giận để chứng tỏ mình yêu nước, yêu giống nòi!

Yêu nước, yêu giống nòi gắn liền với ý thức độc lập, tự chủ là đúng rồi. Nhưng yêu nước, yêu giống nòi lại càng không thể đoạn tuyệt với ngàn năm văn hiến của tổ tiên.

Học một ngôn ngữ khác không đồng nghĩa với bị nô dịch. Thiếu hiểu biết mới đi đến nguy cơ bị nô dịch.

Cá nhân tôi đã từng phản đối sự phục hưng Nho giáo, ở sự lợi dụng, biến tấu một học thuyết toàn trị của quá khứ để phục vụ cho một nhóm người hiện tại có quyền lực (cả trong gia đình lẫn xã hội) lúc nào cũng nhân danh Lễ trị để thống trị kẻ khác.

Nhưng tôi cũng không bao giờ phản đối văn hóa Hán (rộng hơn văn hóa Nho giáo) với những tinh hoa mà dân tộc đã từng và buộc phải chịu ảnh hưởng, trong đó có chữ Hán. Cần và nên đưa vào trường học, ngay ở giáo dục phổ thông là đúng. Còn liều lượng thế nào phải bàn thêm.

Chẳng hạn, có thể không nhất thiết học chữ Hán như một môn học riêng (dễ bị hiểu nhầm là ngoại ngữ bắt buộc) mà tích hợp vào trong phần học văn bản ngữ văn trung đại do giáo viên ngữ văn đảm nhiệm.

Thay bằng học bản dịch với những nội dung tán sáo tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước… đến nhàm chán như hiện nay là yêu cầu tiếp cận nguyên tác.

Có một thực tế là sinh viên ngành ngữ văn có học Hán Nôm với dung lượng không ít, học tốt chứ không hẳn hoàn toàn khó học, nhưng khi ra trường lại không hề sử dụng. Mà ngôn ngữ không được mang ra sử dụng thì, hoặc là ngay tại trường đại học, việc dạy và học hoàn toàn đối phó, khi ra trường vốn chữ từng được học bị rơi rớt dần, cuối cùng là sự lãng phí đáng tiếc trong đào tạo.

Mục đích quan trọng của việc học chữ Hán ở phổ thông là tạo hứng thú cho người học, từ đó tìm kiếm, phát hiện những năng lực nghiên cứu văn hóa cổ để đào tạo chuyên sâu và nâng cao thành chuyên ngành về sau.

Nhân chuyện hiểu nhầm xem chữ Hán là một ngoại ngữ, tại một trường đại học vừa rồi cũng đã từng xảy ra một cuộc tranh cãi tương tự.

Đúng ra là một vụ kiện tụng về bằng cấp chuyên ngành của một giảng viên dạy Hán Nôm. Nguyên đơn cho rằng, người này không đảm bảo yêu cầu về bằng cấp chuyên môn để có thể dạy môn học này, vì không có bằng thạc sĩ, hay tiến sĩ Hán Nôm.

Tổ thanh tra lại kết luận nội dung tố cáo này là đúng, với lí do xem đó như là một ngoại ngữ!

Tôi phải gặp hiệu trưởng yêu cầu thu hồi ngay lập tức bản kết luận thiếu hiểu biết này.

Rằng Hán Nôm được giảng dạy tại Khoa Ngữ văn chỉ là một môn học của ngành Ngữ văn chứ không phải là một chuyên ngành. Nó không là ngoại ngữ mà là chữ viết và văn bản của cha ông trước thế kỉ 20.

May mà hiệu trưởng nghe ra và cho thu hồi bản kết luận. Tôi nói thêm, nếu kết luận sai trái kia được mang ra thực thi, thì ở Việt Nam không có ai đủ tư cách giảng dạy môn học này. Và chẳng lẽ bỏ hẳn cái môn học đang giúp cho người học hiểu biết về quá khứ của cha ông?

Bỏ qua những thói quen hàm hồ quy chụp PGS Đoàn Lê Giang hay bất cứ ai chỉ cần một câu bênh vực Hán hoặc Tàu là “Hán nô”, “Tàu cộng”, tôi chỉ trao đổi với những ý kiến nghiêm túc mang tính trái chiều về việc có nên hay không nên dạy học chữ Hán ở nhà trường phổ thông.

Xin phép được nói thẳng, không phải luận điểm nào trong bài viết của PGS Đoàn Lê Giang cũng đảm bảo thuyết phục hoặc được hiểu đúng, cho nên có nhiều ý kiến trái chiều là lẽ hiển nhiên. Điều này đã có một số người viết. Tôi chỉ nói thêm một ý, giá như, về cái việc bỏ học chữ Hán từ khi có kí tự Latin, PGS Đoàn Lê Giang nên nói đó là một điều đáng tiếc thì câu chuyện có vẻ nhẹ nhõm hơn.

Chữ Hán không là ngoại ngữ mà là tiếng Việt trước thế kỉ 20 gắn liền với nền văn hóa Hán mà cha ông ta đã sử dụng. Có điều kiện học tốt món này là để hiểu biết và bảo tồn di sản cha ông chứ không nô dịch ai cả. Còn lúc này, tôi chỉ có thể nói gọn một câu, rằng các lão sư của chúng ta do nuối tiếc quá khứ, tức tiếc của, mà nổi hứng lên đòi đưa vào nhà trường phổ thông, đòi từ tiểu học nữa cơ, chứ sự thật là bất khả!

Bởi vì lẽ đơn giản: Ai sẽ đứng ra dạy chữ Hán mà các lão sư muốn sang vậy? Có đến mươi năm đào tạo rồi mà ngành giáo dục còn chưa có đủ lực lượng để dạy tiếng Anh cho có chất lượng thì lấy đâu ra giáo viên dạy Hán – Nôm?

Chu Mộng Long

PGS ĐOÀN LÊ GIANG TẠM KẾT TRANH LUẬN DẠY CHỮ HÁN TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG

 ĐOÀN LÊ GIANG/ VNN 4-9-2016

“Tôi thuộc những người đánh giá rất cao vai trò của ngôn ngữ và văn hóa đối với sự trường tồn của dân tộc mà đề nghị như thế. Tôi tin rằng: Tiếng Việt còn thì văn hóa ta còn, văn hóa ta còn thì nước ta còn” – PGS. TS Đoàn Lê Giang.

Khi phát biểu trong Hội thảo ở Viện Hán Nôm (27/8/2016) tôi có nói: 6 năm trước tôi đã từng có tham luận đề nghị dạy chữ Hán trong nhà trường để giữ gìn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, tuy nhiên nếu nói trong tình hình bây giờ thì rất khó.

Sau khi VietNamNet đăng tải bài viết có trích ý kiến của tôi, sợ mọi người không hiểu hết ý nên tôi phải đưa nguyên văn bài tham luận của tôi trình bày trong Hội thảo “Phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong thời kỳ hội nhập quốc tế” (2010), bài viết có tên “Khôi phục việc dạy chữ Hán trong nhà trường – một phương pháp quan trọng để giữ gìn tiếng Việt và văn hoá Việt Nam”.

Chữ Hán là gì?

Sau đó 2 bài viết ấy lan truyền rất mạnh trên các mạng xã hội với nhiều ý kiến trái chiều, gay gắt. Nay, tôi xin nói rõ suy nghĩ của tôi ở đây với mong muốn những người ngoài chuyên môn cũng hiểu được:

Chữ Hán là chữ được sinh ra từ nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, vào nước ta từ đời Hán (đầu CN), được các thế hệ cha ông ta Việt hóa nó, đọc bằng âm Hán Việt (tương tự như Hàn Quốc có âm Hán Hàn, Nhật Bản có âm Hán Hòa (Onyomi).

Chữ Hán đã tạo nên 60-70% vốn từ vựng tiếng Việt. Ví dụ: Hà Nội hoàn thành chỉnh trang đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, thì có lẽ 100% là từ gốc Hán các thời khác nhau.

Có người nói với tôi nên dùng chữ Nho cho khỏi lầm. Dùng cũng được, nhưng nó không chuẩn, vì chữ ấy không chỉ dùng trong các văn bản Nho, mà cả Phật, Đạo hay những loại văn hóa khác.

Có người nói nên dùng chữ Hán Nôm. Tôi thì không dùng vì trên đời không có chữ đó, mà chỉ có chữ Hán và chữ Nôm.

Vậy chữ Hán là nói tắt của chữ Hán cổ đọc theo âm Việt. Cách nói này rất phổ biến, và được giới nghiên cứu mặc nhiên thừa nhận.

Vậy chữ Hán không phải là tiếng Hán, càng không phải Trung văn.

Tại sao chúng ta phải học chữ Hán?

Vì 2 lý do chính:

Thứ nhất, chúng ta muốn hiểu sâu được tiếng Việt thì chúng ta cần biết gốc gác nó ra sao, tra cứu nó thế nào.

Ví dụ: từ Minh Tâm, nghĩa là sáng lòng, vì chữ Minh là sáng. Nhưng học trò thắc mắc thế U Minh thì là gì, sáng tối à? Không, “Minh” trong trường hợp này lại là “Tối”. U Minh là mờ mịt. Học trò lại hỏi: Thế Đồng Minh là cùng sáng à? Không, Đồng Minh là cùng phe, vì nó xuất phát từ nghĩa: cùng hội thề. Vì chữ Minh là Thề.

Vậy làm thế nào để cô giáo trả lời học sinh những câu hỏi ấy, làm thế nào cho học sinh không hỏi cô mà cũng biết được.

Có hai cách:

1. Học âm Hán Việt, tự tra từ điển tiếng Việt. Đa số những người giỏi tiếng Việt hiện nay đều hình thành bằng con đường ấy. Nhưng thực ra họ cũng không thật tự tin vì từ ngữ thì vô bờ, sai đúng lẫn lộn, người ta không thể tự tin hoàn toàn được.

2. Học chữ Hán để có ấn tượng là chữ Hán rất nhiều từ đồng âm, nhiều nghĩa khác nhau. Sau đó biết cách tra từ điển. Từ điển chữ Hán có nhiều loại, rất phức tạp, phải học để có một chút vốn liếng mới tra được. Bằng cách này người ta có thể tự tra cứu, tự học tiếng Việt suốt đời.

Lý do thứ 2, học chữ Hán để cho chúng ta hiểu được văn hóa Việt Nam, chúng ta cảm thấy gắn bó với ông cha. Vì từ trước khi bỏ chữ Hán hoàn toàn vào đầu Thế kỷ XX, toàn bộ di sản văn hóa Việt Nam được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm (một thứ chữ được hình thành từ chữ Hán). Chúng ta học chữ Hán để chúng ta hiểu sâu tiếng Việt, từ đó có thể hiểu được vốn văn hóa Việt Nam.

Văn hóa cổ dù có được dịch ra tiếng Việt, như các công trình của Lê Quý Đôn chẳng hạn, nếu không có vốn chữ Hán nhất định, đọc vẫn rất khó hiểu.

Đọc Truyện Kiều, nếu có biết chữ Hán, chữ Nôm thì mới hiểu thấu đáo cái hay của nó. Chúng ta nếu có biết chút ít chữ Hán thì đến các di tích văn hóa (đình chùa miếu mạo), nhìn một tập thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng ta không thấy xa lạ, không thấy mình là “những đứa con thất cước của giống nòi” (chữ của Hoài Thanh).

Sâu xa hơn, chúng ta là người VN, trong văn hóa chúng ta có một phần văn hóa Đông Á. Chúng ta coi trọng gia đình, sống cần kiệm, đề cao đức liêm chính, hiếu kính, hiếu học…Tất cả những điều ấy có xấu không, có nên bỏ không, và có bỏ được không? Tôi không nói phương Tây không có điều ấy, đạo đức phương Tây được hình thành từ Thiên chúa giáo và văn hóa truyền thống của họ, còn đạo đức chúng ta thì từ văn hóa bản địa và văn hóa Đông Á (Nho, Đạo thuộc về văn hóa Hán, Phật thì gốc Ấn Độ).

Những điều ấy được các bậc hiền triết phương Đông nói rất hay và từ rất sớm, các sách vỡ lòng chữ Hán ngày xưa vừa dạy chữ, vừa dạy người thông qua các sách đó rất thú vị và dễ nhớ. Vậy chúng ta có nên học một chút tinh hoa từ đó qua sách chữ Hán nhập môn không?

Nếu chúng ta chỉ lo đuổi theo phương Tây và bằng lòng với ngôn ngữ chat, tin nhắn, với loại văn bản lổn nhổn tiếng Anh lẫn tiếng Việt thì rõ ràng đó là nguy cơ cho sự trong sáng của tiếng Việt và mai một văn hóa truyền thống.

Học chữ Hán có dễ không?

Dễ mà khó. Nếu học để trở thành học giả uyên thâm dịch được sách vở cổ thì rất khó, nhưng học để biết một số chữ, để biết tra từ điển Hán Việt, từ đó có thể tự học tiếng Việt suốt đời thì rất dễ. Vì người học chỉ học có 2 kỹ năng: đọc, viết, mà không phải học kỹ năng nghe, nói. Đồng thời học chữ Hán như xem tranh, như học ghép hình rất dễ nhớ và thú vị.

Tôi muốn tổ chức một nhóm biên soạn một cuốn “Vui học chữ Hán” để dạy cho học sinh cấp 2 (như kiểu nhóm Phan Thị làm ở đằng sau bộ truyện tranh (kiểu manga) “Thần đồng đất Việt”, mỗi tập vài chữ). Trong thực tế học sinh chuyên văn Phổ thông năng khiếu hàng năm đều có học mấy chục tiết chữ Hán, các em học rất thú vị và tiến bộ rõ rệt khi sử dụng từ Hán Việt và học văn học cổ điển VN.

Ai là người dạy chữ Hán?

Có đấy, các khoa ngữ văn ở HN, TP.HCM, Huế đều có sinh viên Hán Nôm, học viên cao học Hán Nôm, và các sinh viên Văn học cũng được học hơn 100 tiết chữ Hán cơ sở và nâng cao.

Dạy chữ Hán trong nhà trường như thế nào?

Có nhiều cấp độ khác nhau. Học sinh THCS học 1 tiết/ tuần trong môn Ngữ văn theo kiểu “Vui học chữ Hán” – chữ Hán bằng hình ảnh. Dạy thế này rất dễ, thầy cô có một chút vốn Hán Nôm đều dạy được. Nếu trường không có thầy cô biết Hán Nôm thì bài ấy là tự chọn, thích thì tự học, không thì thôi. Lên THPT thì HS chuyên ban KHXH có thể tự chọn học sách chữ Hán cơ sở trong môn Ngữ văn, sách này có thể tự học vì nhìn chung môn chữ Hán đều có thể dễ dàng tự học. Nếu học sinh có hứng thú thì có thể học tiếp lên chuyên ngành ở ĐH. Có thể hình dung môn chữ Hán như môn tiếng Latin ở các trường tinh hoa ở Mỹ và châu Âu.

Ghi chú thêm: học chữ Hán không ảnh hưởng gì đến tiếng Anh là ngoại ngữ bắt buộc hay các ngoại ngữ khác: Pháp, Nhật, Trung. Mỗi môn này theo tôi phải học từ 8-12 tiết/ tuần.

Đại khái tôi đề nghị và hình dung việc học chữ Hán trong trường phổ thông như thế. Nhưng ít ai đọc hết tham luận của tôi. Hơn nữa tham luận của tôi được trình bày trong hội thảo chuyên ngành, nhiều kiến thức được coi là đương nhiên, nhiều tiền giả định bị lược bỏ, nhiều kết luận đã lược bỏ lập luận… nên người đọc phải có kiến thức cơ sở một chút mới hiểu đúng. Trên mạng đa số người ta chỉ đọc cái tít báo rồi nhảy dựng lên. Đa số không phân biệt được chữ Hán với tiếng Hán, tiếng Trung. Không phân biệt được từ Hán Việt, ngành Hán Nôm, hay “từ” với “chữ” Hán…

Thế nhưng ai cũng có ý kiến: đọc rồi cũng nói, không đọc cũng nói, biết cũng nói, không biết cũng nói, biết dở dở ương ương cũng nói. Tất nhiên có rất nhiều người hiểu biết, phân tích, trình bày một cách có lý lẽ, người thì nhiệt liệt đồng tình, người thì đồng tình có mức độ, người thì nêu ra những khó khăn hay điều kiện để chủ trương ấy thành khả thi…

Nói cho công bằng, đề nghị đưa chữ Hán giảng dạy trong nhà trường thì tôi không phải là người đầu tiên hay duy nhất. Nếu không kể các thời trước thì chừng hơn 10 năm nay đã có nhiều người đề nghị, như GS Cao Xuân Hạo (nhà ngữ học hàng đầu VN thế kỷ XX) đề nghị học chữ Hán xuất phát từ tính ưu việt của nó; GS Nguyễn Đình Chú (nhà ngữ văn hàng đầu) đề nghị học chữ Hán vì tính quan trọng của nó đối với môn ngữ văn; GS Nguyễn Cảnh Toàn (GS toán học, thứ trưởng Bộ GD trước đây) đề nghị học chữ Hán vì chữ Hán giúp hình thành các thuật ngữ khoa học dễ dàng, chặt chẽ và giúp hiểu rõ văn hóa VN…

Tôi thì đứng từ điểm nhìn các nước văn hóa chữ Hán: Nhật, Hàn, Đài Loan (không phải TQ) – những nước vừa phát triển hiện đại vừa giữ gìn ngôn ngữ và bản sắc dân tộc của họ mà để đề nghị học chữ Hán (Hán Việt), nhằm làm sao giữ gìn, phát triển tiếng Việt và văn hóa VN. Tôi thuộc những người đánh giá rất cao vai trò của ngôn ngữ và văn hóa đối với sự trường tồn của dân tộc mà đề nghị như thế. Tôi tin rằng: Tiếng Việt còn thì văn hóa ta còn, văn hóa ta còn thì nước ta còn.

  • PGS. TS Đoàn Lê Giang

ĐIỀU CÒN LẠI SAU CUỘC TRANH LUẬN ĐƯA CHỮ HÁN VÀO TRƯỜNG HỌC

NGUYỄN QUỐC VƯƠNG/ VNN 6-9-2016

Những năm gần đây, các cuộc tranh luận trên mạng Internet của người Việt trở nên sôi nổi khác thường. Dường như sự sôi nổi của các cuộc tranh luận ấy với sự tham gia đông đảo của nhiều người thuộc nhiều nhóm tuổi, nghề nghiệp có gì đó rất khác với cuộc sống phẳng lặng nặng chuyện áo cơm thường ngày. Cuộc tranh luận sổi nổi xung quanh ý kiến của PGS.TS Đoàn Lê Giang về việc đưa chữ Hán-Nôm vào dạy trong trường phổ thông là một cuộc tranh luận như thế.

Một cuộc tranh luận sôi nổi

Có lẽ bản thân PGS.TS Đoàn Lê Giang và cả những nhà chuyên môn khác tham gia hội thảo cũng không ngờ rằng ý kiến về chuyện đưa chữ Hán-Nôm vào giảng dạy trong trường phổ thông lại được công chúng quan tâm đến thế.
Tuy nhiên, khi truyền thông đại chúng đưa tin về Hội thảo và ý kiến của PGS.TĐoàn Lê Giang với những tiêu đề đầy… “khiêu khích” và người dùng các trang mạng xã hội chia sẻ lại những bài viết này, cuộc tranh luận đã bùng nổ dữ dội.Thông thường, những cuộc hội thảo chuyên môn thường chỉ có từ vài chục đến trên dưới trăm người tham gia và thảo luận. Kỉ yếu của hội thảo được in và tặng cho những người tham dự với số lượng rất hạn chế. Ngoài những người tham gia hội thảo, sẽ không có nhiều người đọc những bài được đăng trong đó hoặc nếu có thì số lượng cũng rất nhỏ.

Theo quan sát của tôi trong cuộc tranh luận này những người ủng hộ đa phần là những người biết ít nhiều chữ Hán, chữ Nôm hoặc cả hai trong khi ở phía những người phản đối dường như có rất ít người có thể đọc được chữ Hán và chữ Nôm.

Một điểm đáng chú ý nữa là trong cuộc tranh luận ồn ào này, sự xuất hiện công khai của các nhà nghiên cứu Hán-Nôm trên phương tiện truyền thông đại chúng rất thưa thớt. Nhiều nhà nghiên cứu cao niên có tên tuổi và cả những nhà nghiên cứu trẻ có những thành tựu đáng chú ý những năm gần đây dường như đều đứng ngoài cuộc tranh luận.

Thông thường Hán-Nôm vốn là lĩnh vực chuyên môn khá hẹp ở Việt Nam. Vậy thì tại sao lần này, cuộc hội thảo và cụ thể hơn là ý kiến về việc đưa chữ Hán-Nôm vào trường phổ thông lại thu hút sự quan tâm lớn đến như thế?

Có nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ nguyên nhân chủ yếu nhất nằm ở chỗ ý kiến của PGS.TS Đoàn Lê Giang đã “động nhân tâm” và gợi đến rất nhiều liên tưởng, trong đó có cả những liên tưởng và suy diễn vượt xa khỏi ý tưởng và câu chữ của người đưa ra ý kiến trong hội thảo.

Sự phản ứng của công chúng với ý kiến đề nghị đưa chữ Hán-Nôm vào trong trường học không chỉ là thuần túy là sự phản đối một ý tưởng giáo dục.

Nhiều người phản đối (tất nhiên không phải là tất cả) đã phản ứng mạnh mẽ trong sự liên tưởng đến những vấn đề đang ngày một trầm trọng của đất nước như: chủ quyền quốc gia vị đe dọa và xâm hại, sự “xâm lăng” tinh vi và toàn diện trong lĩnh vực văn hóa, những yếu kém của nền giáo dục, tình trạng thật giả lẫn lộn trong khoa học…

Chính sự phản ứng mạnh mẽ xuất phát từ tình cảm và sự liên tưởng ấy đã dẫn dắt cuộc tranh luận trên các trang mạng xã hội rời xa khỏi vấn đề mà PGS.TS Đoàn Lê Giang đề ra: đề xuất giảng dạy chữ Hán-Nôm trong trường học.

Trong bản tham luận của mình, tác giả cũng chỉ mới phác ra ý tưởng về việc giảng dạy Hán-Nôm ở trường phổ thông ở mức rất thận trọng nhưng khi tranh luận và phê phán, nhiều người đã mặc định như thể đó đã trở thành một chủ trương-chính sách lớn, sẽ được thực hiện đại trà trên tất cả các trường học và Hán-Nôm rồi đây sẽ trở thành bộ môn bắt buộc dành cho tất cả các học sinh ở phổ thông.

Có người suy diễn xa hơn khi cho rằng đây là chủ trương đưa chữ Hán-Nôm vào thay thế cho tiếng Anh trong nhà trường!? Thậm chí có cả những ý kiến cho rằng rồi đây chữ Hán-Nôm sẽ thay thế cho chữ Quốc ngữ và như thế là “quay lùi bánh xe lịch sử?”….

Chính vì thế mà từ chỗ phản đối, nhiều người tham gia tranh luận trên các trang mạng xã hội đã phê phán và chỉ trích quá đà khi công kích cá nhân người đưa ra đề nghị trên bằng những lời lẽ rất nặng nề.

Đấy là một sự không công bằng đối với người đã phát biểu trong hội thảo. Khi cuộc tranh luận và sự phê bình, chỉ trích diễn ra theo hướng đó, nó giống như một trận đấu võ không có trọng tài mà một bên là “nhà chuyên môn” thi đấu theo thể thức của môn “boxing” trong khi các “đối thủ” thì tấn công bằng các đòn thế của “võ tự do”.

Những gì còn lại sau tranh luận

Cho dẫu có xu hướng đi ngày một xa khỏi ý kiến ban đầu của PGS.TS Đoàn Lê Giang, cuộc tranh luận nói trên cũng đặt ra rất nhiều vấn đề cần tiếp tục suy nghĩ cho cả giới chuyên môn và công chúng.

Thứ nhất là vấn đề làm thế nào để chữ Hán-Nôm và những văn bản cha ông viết bằng thứ chữ đó tiến gần lại hơn với công chúng? Cuộc tranh luận đã làm rõ thêm rằng trên thực tế nhận thức của một bộ phận công chúng về chữ Hán, chữ Nôm và di sản được ghi lại bằng thứ chữ đó rất hạn chế.

dạy chữ Hán trong trường phổ thông, dạy chữ Hán

Hoạt động ngoại khóa của một lớp học chữ Hán ngoài nhà trường. Ảnh: FB Nguyễn Sử.

Thứ hai, người Việt chúng ta cần có thái độ và tư thế như thế nào trong việc tiếp nhận, kế thừa và nghiên cứu những di sản văn hóa mà các thế hệ đi trước để lại cũng như tiếp nhận tinh hoa văn hóa của thế giới để hội nhập vào thế giới văn minh?Rất nhiều người nhầm tưởng chữ Hán và chữ Nôm, thứ chữ cha ông chúng ta đã dùng suốt hơn nghìn năm để viết nên những tác phẩm văn học, lịch sử nổi tiếng và được đưa vào trong chương trình học tập ở trường phổ thông từ trước đến nay đồng thời cũng là tiếng Trung hiện đại, ngôn ngữ mà người Trung Quốc đang sử dụng. Trách nhiệm giải quyết vấn đề này có một phần không nhỏ thuộc về các nhà nghiên cứu và giảng dạy Hán-Nôm.

Liệu rằng sự tiếp nhận và kế thừa di sản văn hóa của cha ông có mâu thuẫn với việc giao lưu và hội nhập vào thế giới văn minh?

Những ý kiến tranh luận thể hiện sự đối lập gay gắt giữa việc học Hán-Nôm với học các thứ tiếng như Anh, Pháp… phần nào thể hiện trong vô thức sự lúng túng của người Việt khi đứng trước những giá trị của Đông và Tây.

Thứ ba, cuộc tranh luận được đẩy đi rất xa và rộng với nhiều vấn đề khác nhau đã đặt ra cho tất cả người Việt quan tâm đến vận mệnh của dân tộc một câu hỏi: chúng ta là ai và chúng ta sẽ thế nào?

Như một quy luật tất yếu, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào thế giới và chia sẻ các giá trị phổ quát của nhân loại, nhu cầu khám phá, làm rõ quá khứ và tìm lại cội nguồn sẽ ngày một trở nên mạnh mẽ.

Tái xác nhận “Identity” sẽ trở thành một nhu cầu tự thân của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Trong quá trình ấy, quá khứ nói chung và di sản Hán-Nôm sẽ có vai trò lớn.

Khi nhìn ở phạm vi rộng lớn như thế, cả ý kiến đề nghị đưa Hán-Nôm vào giảng dạy trong trường học và những ý kiến phản đối mạnh mẽ thực ra đều thể hiện nhu cầu định vị lại chính bản thân mình và cộng đồng mà mình quy thuộc vào.

Sau một thời gian ồn ào, cuộc tranh luận rồi cũng sẽ lắng xuống. Nhiều người khi bình tĩnh lại sẽ nhận ra nhiều ý kiến chỉ trích đã “đi quá đà”.

Với riêng tôi, ý kiến đề nghị của PGS.TS Đoàn Lê Giang trong tư cách một nhà nghiên cứu là rất bình thường. Chuyện tranh luận hay phản bác lại ý kiến của ông cũng là chuyện bình thường vì không phải mọi dẫn chứng và lập luận ông đưa ra đều hoàn toàn hợp lý.

Chẳng hạn, nếu như ông đưa ra dẫn chứng học sinh Nhật Bản có phân môn tự chọn là Cổ điển trong môn Quốc ngữ ở bậc học Trung học phổ thông để kế thừa và nghiên cứu di sản của cha ông sẽ thuyết phục hơn chuyện học sinh Nhật phải học bắt buộc một số lượng chữ Hán ở từng cấp học bởi vì tiếng Nhật hiện đại vẫn phải dùng đến các chữ Hán đó.

Tất nhiên, cho dù ủng hộ ông về ý tưởng, tôi vẫn không mấy lạc quan về tương lai của ý tưởng đó khi nó được thực hiện trong thực tế khi chữ Hán-Nôm được đưa vào trường học cho dù chỉ là môn tự chọn hay sinh hoạt câu lạc bộ.

Nếu như nền giáo dục hiện tại không được cải cách một cách cơ bản thì cho dù đưa vào bất cứ một nội dung mới nào, nó cũng sẽ thất bại. Chất lượng của các môn học hiện hành, chẳng hạn như môn Văn hay Lịch sử đủ để dự đoán kết quả ấy.

Tất nhiên, tranh luận và phản đối khác với mạt sát và công kích cá nhân. Sẽ rất thiếu công bằng đối với cá nhân PGS.TS Đoàn Lê Giang và không có ích gì thêm cho cộng đồng người Việt nếu như cuộc tranh luận chỉ dựa trên những suy diễn.

Có lẽ trải qua một thời gian dài, người Việt không có nhiều cơ hội và không gian để tranh luận thoải mái vì thế khi mạng internet đột ngột đem lại điều ấy, người Việt chúng ta đã sôi nổi tranh luận mà chưa quen với những nguyên tắc và kĩ năng tranh luận. Để có nó, có lẽ người Việt cần cả đến thời gian và sự tự thân nỗ lực của mỗi người.

Nguyễn Quốc Vương

DẠY CHỮ HÁN TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG ĐÃ TRỞ THÀNH MỘT NHU CẦU CẤP BÁCH

NGUYỄN HUỆ CHI/ BVN 6-9-2016

Dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông đã trở thành một nhu cầu cấp bách

Về cơ bản tôi tán thành quan điểm của PGS TS Đoàn Lê Giang (xem Phụ lục 1) và không tán thành hết mọi ý kiến trong bài trả lời phỏng vấn của PGS Phan Trọng Đạt (xem Phụ lục 3). Như đã viết trên FB, tôi nhớ năm 1990, GS PL xây dựng một dự án “về sự ra đời của chữ quốc ngữ trong xu thế phát triển của văn học VN hiện đại” để xin tài trợ của Nhật, tôi là một thành viên Viện Văn học được cử đến trao đổi với chuyên gia văn hóa Nhật Bản. Không ngờ bị họ phản bác rất mạnh. Cả mấy học giả Nhật đều lập luận: Việt Nam bỏ học chữ Hán và chữ Nôm là sai lầm, trẻ em sẽ không còn biết gì về văn hóa truyền thống hàng ngàn năm của đất nước mình. Khi chúng lớn lên, người Việt Nam thế nào cũng lâm tình trạng mất gốc dù nhiều hay ít. Ở Nhật, trẻ em vẫn phải học 3000 chữ Hán cổ. Và đó không phải là học văn hóa Trung Quốc mà học cho văn hóa Nhật Bản. Chúng tôi cãi không lại họ và cuối cùng dự án của PL bị từ khước.

Tôi nghĩ, vào năm 1932 cụ Phan Khôi phản đối dạy chữ Hán ở trường tiểu học Pháp – Việt (trong bài Đánh đổ cái thuyết dạy tiểu học bằng chữ Nho), đó là cụ quan niệm dạy chữ Hán thay cho tiếng Việt như một ngôn ngữ phụ, và học chữ Hán theo cách hiểu của cụ là học đạo lý, còn chúng ta đề xuất dạy chữ Hán cho các em hôm nay là dạy xen một số giờ chữ Hán, bên cạnh tiếng Việt là ngôn ngữ chủ thể và tiếng Anh đứng thứ hai, thì rất nên. Không những nên mà còn cần thiết, bởi hoàn cảnh lịch sử đã đẩy Việt Nam vào khu vực văn hóa Đông Á kể từ trước thiên niên kỷ I – cùng với Nhật Bản, Triều Tiên – khiến cho tiếng Hán trở nên gắn bó lâu dài, khăng khít cũng như chiếm một tỷ trọng không hề nhỏ trong tiếng Việt hiện đại. Mà tiếng nói – ngôn ngữ – vốn là một trong những thành tố hệ trọng góp phần quyết định sự tồn vong của một dân tộc, thì lại là một chân lý hiển nhiên, đã được minh chứng trên khắp các châu lục từ xưa đến nay (Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”). Vì nhu cầu giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, thậm chí giữ cho kho từ vựng tiếng Việt trải mấy nghìn năm không bị mai một, suy thoái, để dân tộc không rời vào mất gốc mà bắt buộc dạy chữ Hán trong trường học phổ thông với một liều lượng nào đấy, không phải là điều phi lý. Tất nhiên học chữ hay nói như PGS Đạt là học từ, không thể nghĩ đơn giản chỉ học ký âm theo tiếng Latinh là đủ, mà phải bao gồm cả học cách viết chữ Hán cổ cùng với âm đọc chữ Hán của người Việt (Hán Việt), vì lẽ trong ngôn ngữ học, đã nói đến ký hiệu thì có cả phần chữ và phần âm, và học như thế cũng tức là học cả cái nội hàm văn hóa tích hợp trong mỗi chữ. Nói cách khác, đem chữ Hán vào trường học là một cách để các thế hệ trẻ người Việt nhập tâm, thâu hóa vốn liếng văn hóa cha ông ta nhiều đời tích lũy được, khác hẳn việc bảo lưu ngôn ngữ Hán Việt trong từ điển, do chỗ từ điển chỉ là một kho chứa thuần túy, không thể nào làm cho nội hàm văn hóa của từ ngữ sống dậy, tiến kịp với hành trình của dân tộc.

Dưới thời Pháp thuộc, Nha học chính Đông Pháp chẳng phải đã tổ chức thành công bộ sách Hán văn tân giáo khoa thư, 6 tập, do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi soạn, cùng với bộ Quốc văn giáo khoa thư, 6 tập, do nhóm Trần Trọng Kim soạn, được dùng cho cấp tiểu học cho đến tận 1945 đấy là gì. Người Pháp thực dân hẳn phải đánh giá lịch sử văn hóa văn minh của dân tộc chúng ta như thế nào sau khi đã lắng nghe nhiều kiến nghị của trí thức bản xứ, mới chấp nhận một chương trình giảng dạy có thêm hai phần như đã nói vào chương trình giáo dục Pháp – Việt ở bậc học 6 năm đầu tiên trong đời đi học của trẻ em người Việt. Hai bộ sách ấy hiện vẫn còn lưu dấu trong ký ức nhiều bậc cao tuổi, và thực tế cho thấy, những thế hệ được học hai chương trình đó từ tuổi còn rất nhỏ, sau này ra gánh vác việc đời dù ở cương vị nào, phần lớn đều có được cái nhìn nhân văn, có cách khu xử thấu đáo, chuẩn mực, và có tầm viễn kiến, ít để lại những hệ lụy đáng lo ngại như những gì mà hầu hết lớp người cầm chịch hiện nay đang hành xử.

Cần nhắc lại lần nữa, khi ta nói dạy chữ Hán trong nhà trường là dạy chữ Hán Việt Nam, tức là chữ Hán đọc theo âm Hán Việt và dùng theo nghĩa của người Việt, không phải là dạy Trung văn. Do chữ Hán từ một công cụ hành chính của quốc gia phong kiến buổi đầu, sau nhiều đời đã thấm vào lời ăn tiếng nói của nhân dân, lại được trải nghiệm, tích hợp trong bối cảnh đặc thù của lịch sử Việt Nam, nên tư duy Hán ngữ của người Việt, kể cả tầng lớp nho sĩ, không còn nhất nhất rập khuôn tư duy Hán ngữ của người Tàu, mà có dịch chuyển dần dà cả về sắc thái ngữ nghĩa cũng như đôi nét cá biệt về ngữ pháp. Chính vì thế mà Lương Khải Siêu khi đọc Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu (1905) có chỗ đã không hiểu được dụng ý dùng chữ của cụ Phan, phải than thở: chữ Hán hình như chưa tinh tường lắm (1). Kỳ thực cụ Phan là người Việt, cụ không đúc khuôn cách thức biểu đạt ngôn ngữ răm rắp theo Trung Quốc (điều này khi tôi sang Trung Quốc và khi PGS Trần Thị Băng Thanh sang Trung Quốc đều nghiệm thấy khá rõ. Cả trong chú giải Liêu trai chí dị, một bộ sách văn ngôn vào loại khó, của học giả Trương Hữu Hạc – được coi là nhà Liêu trai học hàng đầu – chúng tôi vẫn nhận ra có những chỗ ông ta chấm câu khác cách chấm câu của giới Hán học Việt Nam. Những kết quả lâu dài tạo nên sự khu biệt nói trên phải coi là thành quả của văn hóa chúng ta, nếu không truyền lại cho lớp trẻ thì chắc chắn sẽ tiêu tán, thất lạc dần đi.

Tôi nhớ năm 1992, trong Hội thảo khoa học về núi Bài Thơ tại Quảng Ninh (2) – Lê Thánh Tông cho khắc trên núi này bài ký điều quân đi tuần hành vùng Đông Hải kèm với bài thơ của ông, ngay từ thế kỷ XV, rồi các đời sau còn nhiều danh sĩ đến vãng cảnh khắc thêm thơ văn, nhưng có lẽ đến giữa thế kỷ XX, do chữ Hán lần lần mất ý nghĩa trong đại chúng nên di tích bị xâm hại – nhân tình trạng xuống cấp của một cụm di tích quý, GS Hà Văn Tấn có bàn với tôi và GS Phan Huy Lê cùng nhau làm một kiến nghị gửi Bộ Giáo dục đề nghị bổ sung thêm một vài tiết học chữ Hán vào chương trình tiếng Việt ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, tuy vậy khi trao đổi thì thấy chương trình đã quá nặng nên đành xếp lại. Phải nói thuở ấy, di tích-di sản lịch sử và văn hóa đã bị phá hoại rất nhiều nhưng trong đời sống ngôn ngữ – trên báo chí hàng ngày cũng như trong văn chương sách vở – cách dùng tiếng Hán Việt vẫn còn khá chuẩn, chưa đến nỗi lệch lạc và tùy tiện như ngày nay. Vì thế, nếu đến giờ phút này mà người phụ trách giáo dục vẫn còn nhẩn nha, chưa quyết tâm đem chữ Hán vào trường học, thì sự tuột dốc của sinh hoạt ngôn ngữ – cả ngôn ngữ khoa bảng và ngôn ngữ đời sống – chưa biết thế nào mà nói trước. Hãy cố gắng động não nhằm bỏ bớt những phần học vô bổ cho chương trình bớt nặng – hẳn không khó lọc ra nếu các vị lãnh đạo thành tâm muốn vậy – thì chắc chắn có thể dạy thêm môn học Hán Nôm.

Còn nói như PGS Đạt: bắt học sinh học chữ tượng hình là đi ngược quy luật ngôn ngữ hiện đại thì tôi không thể hiểu. Một nhà triết học nổi tiếng của Pháp hình như là Jacques Derrida (1930-2004) thì phải (có thể tôi nhớ không chính xác), trong các công trình giải cấu trúc luận của mình, khi phản bác ký hiệu học cổ điển coi trọng phần âm mà coi nhẹ phần chữ, đã từng lưu ý rằng chữ tượng hình là thứ ngôn ngữ chứa đựng trong từng chữ cả một kho tư tưởng, khác với chữ ký âm, đọc vào chỉ là đọc con chữ hời hợt và không thu nhận được một chút tư tưởng gì. Hay nói như nhà ngôn ngữ học phương Đông người Pháp Jean-François Champollion (1790-1832): “Chữ tượng hình là một hệ thống phức hợp, một thứ văn tự mang cùng lúc cả tính tượng hình, tính tượng trưng, cả năng lượng ngữ âm, ngay trong một văn bản, trong một câu, thậm chí gần như trong cùng một từ” (L’écriture hiéroglyphique est un système complexe, une écriture tout à la fois figurative, symbolique et phonétique, dans un même texte, une même phrase, je dirais presque un même mot). Thế thì giúp các em thêm một hình thức tư duy tổng hợp cho đầu óc tưởng tượng mở mang phong phú thêm, có gì mà đi ngược quy luật? Ông Đạt lại nói học tử ngữ sẽ không tốt cho việc học sinh ngữ. Tôi cũng không hiểu. Thế người đi học trường Pháp trước đây vào Ban Triết thì phải học tiếng Latinh thì cũng là tử ngữ đấy chứ, mà có ai tồi tiếng Pháp và tiếng Anh đâu. Chỉ có chúng ta được đào tạo trong nhà trường XHCN chủ trương bỏ ngoại ngữ suốt mấy chục năm (1952-1975), rồi sau 1975 mới cho dạy lại, nhưng phương pháp dạy đại trà, ít có thầy cô giỏi, thì sinh ngữ mới kém cỏi thôi. Cứ so sánh trình độ ngoại ngữ của học sinh sinh viên giữa hai miền Nam Bắc trong thời gian 1955-1975 thì rõ.

N.H.C.

(FB Trần Quang Đức, có bổ sung)

(1) Điều rất lạ kỳ là trong bộẨm Băng thất văn tập飲 冰 室 文 集 do Quảng Trí thư cục Thượng Hải in năm 1905, Lương Khải Siêu lại đem cả Việt Nam vong quốc sử vào đấy, coi như một tác phẩm của mình.

(2) Hội thảo do Tỉnh ủy Quảng Ninh tổ chức, mời Ban Văn học Cổ cận đại Viện Văn học chủ trì.

 

Bình luận về bài viết này

Chuyên mục